BÀI VIẾT TUYÊN TRUYỀN NHÂN KỶ NIỆM 90 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (KỲ 2)
Chuyên mục: Thông tin tuyên truyền |
Người đăng:
Trần Văn Phú Đông |
Ngày đăng: 20/01/2020 |
Số lần xem: 2824
Đảng ủy - Ủy ban nhân dân Phường 6 Quận 10 xin tiếp tục giới thiệu kỳ 2 bài viết về quá trình 90 năm vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam
KỲ II: ĐỒNG CHÍ NGUYỄN ÁI QUỐC TRUYỀN BÁ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN CHUẨN BỊ THÀNH LẬP ĐẢNG
l- Đồng chí Nguyễn ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin:
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ, thì đồng chí Nguyễn ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Gần mười nǎm bôn ba khắp các châu lục (1911-1920), Người đến những nước thuộc địa và những nước đế quốc như Anh, Mỹ, Pháp... quan sát, nghiên cứu, suy nghĩ, đã phát hiện một chân lý: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ của giai cấp công nhân với nhân dân lao đồng ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa... Dưới ánh sáng Cách mạng tháng Mười, Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin và ảnh hưởng của cuộc đấu tranh thành lập Đảng công sản Pháp..., chủ nghĩa Mác - Lênin, chân lý cách mạng của thời đại đã sớm được khẳng định trong nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 12 nǎm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và chủ trương thành lập Đảng cộng sản Pháp. Giải thích việc làm đầy ý nghĩa đó, đồng chí Nguyễn ái Quốc viết: "Đệ tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ. Còn Đệ nhị Quốc tế không hề nhắc đến vận mạng các thuộc địa. Vì vậy, tôi đã bỏ phiếu tán thành Đệ tam Quốc tế. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đây là tất cả những điều tôi muốn." Sự kiện này đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Từ đó Người xác định con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam là: giải phóng giai cấp vô sản mới thực sự giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới.
Toàn cảnh Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tua, tháng 12/1920
Từ khi trở thành người cộng sản, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã xúc tiến mạnh mẽ việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào giải phóng dân tộc và phong trào vô sản ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Cuối nǎm 1921, tại Đại hội lân thứ nhất của Đảng cộng sản Pháp, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã trình bày dự thảo nghị quyết về vấn đề "chủ nghĩa cộng sản và thuộc địa", và kiến nghị thành lập Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng. Nǎm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng cộng sản Pháp được thành lập Đồng chí Nguyễn ái Quốc được cử làm trưởng tiểu ban nghiên cứu về Đông Dương. Với cương vị này, đồng chí đã tích cực tuyên truyền, giáo dục và giới thiệu cho Đảng cộng sản Pháp nhiều chiến sĩ cách mạng của các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi... Cũng nǎm 1921, nhờ sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp, Người đã cùng với một số chiến sĩ cách mạng ở các nước Angiêri, Mađagátxca, Xênêgan, Tuynidi, Marốc, Đahômây v.v.. sáng lập ra Hội liên hiệp thuộc địa ở Pari, trong đó Hội người Việt Nam yêu nước ở Pháp làm nòng cốt. Thông qua tổ chức này và báo Người cùng khổ, diễn đàn của các dân tộc bị áp bức, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đến với các dân tộc thuộc địa, đồng thời tình hình các nước thuộc địa đã đến với nhân dân Pháp. Cùng với báo Người cùng khổ mà đồng chí Nguyễn ái Quốc làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút và quản lý, Người còn viết nhiều bài đǎng trên các báo Nhân đạo (L'humanité), cơ quan Trung ương của Đảng cộng sản Pháp, Đời sống thợ thuyền (La Vie Ouvrière), tiếng nói của giai cấp công nhân, Tạp chí Cộng sản (La Revue communiste), cơ quan lý luận của Đảng cộng sản Pháp v.v.. Hầu hết bài viết của Người đều tập trung lên án chủ nghĩa thực dân.
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tờ báo Người Cùng Khổ
Nǎm 1925, được sự giúp đỡ của những người cộng sản Pháp, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp của đồng chí Nguyễn ái Quốc viết bằng tiếng Pháp được xuất bản lần đầu tiên ở Pari. Tư tưởng, quan điểm cơ bản của Người về chiến lược và sách lược cách mạng thuộc địa đã bước đầu thể hiện trong tác phẩm. Bản án chế độ thực dân Pháp tố cáo trước nhân dân Pháp và thế giới những tội ác của bọn thực dân không chỉ ở Việt Nam, Angiêri mà ở khắp các thuộc địa. Bằng biểu tượng "con đỉa hai vòi", Nguyễn ái Quốc đã làm cho người đọc thấy rằng: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp vô sản và nhân dân lao động bị áp bức, bị bóc lột ở các nước chính quốc và các dân tộc thuộc địa. Bản án chế độ thực dân Pháp đã góp phần vào việc thiết lập sự liên minh giữa cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, phải thực hiện sự liên minh chật chẽ với nhau để chống kẻ thù chung, vì "chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối cùng". Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả nǎng cách mạng to lớn. Phải làm cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản". Bản án chế đô thực dân Pháp đã phê phán thái độ "cầu cạnh xin xỏ thay đổi quốc tịch" của một số người mang tư tưởng cải lương tư sản, đồng thời đề cao tinh thần tự lực, tự cường, tự mình giải phóng cho mình: "công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em" và hướng cách mạng thuộc địa phát triển theo con đường cách mạng của Quốc tế cộng sản. Bản án chế độ thực dân Pháp là tác phẩm lý luận đầu tiên của cách mạng nước ta, góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Nhờ tác phẩm đó và các bài viết của đồng chí Nguyễn ái Quốc, nhân dân ta, trước hết là những người trí thức tiểu tư sản yêu nước, tiến bộ đã hướng về và tiếp thụ chủ nghĩa Mác - Lênin.
Bìa tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp
Tháng 6 nǎm 1923, đồng chí Nguyễn ái Quốc rời nước Pháp đến Mátxcơva để tham dự Hội nghị nông dân quốc tế tân thứ nhất (10-1923); đồng thời trực tiếp học tập, nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Lênin. Ngày 17-6-1924, đồng chí được Trung ương Đảng cộng sản Pháp uỷ nhiệm tham gia Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản. Sau đó, đồng chí còn tham gia các đại hội Quốc tế công hội đỏ, Quốc tế phụ nữ, Quốc tế thanh niên, Quốc tế cứu tế đỏ. Tại các Đại hội quốc tế nói trên, đồng chí Nguyễn ái Quốc tiếp tục làm rõ những quan điểm của mình về vai trò lịch sử của giai cấp vô sản thuộc địa, về mối quan hệ giữa phong trào cách mạng ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc và nêu rõ sự cần thiết phải thủ tiêu hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc trước khi xoá bỏ chế độ thối nát này trên toàn thế giới.
2. Đồng chí Nguyễn ái Quốc trực tiếp chuẩn bị thành lập Đảng:
Giữa tháng 12 nǎm 1924, với tư cách là uỷ viên Bộ phương Đông của Quốc tế cộng sản, trực tiếp phụ trách Cục phương Nam, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã từ Liên Xô đến Quảng Châu (Trung Quốc) để hoạt động, xây dựng phong trào và đào tạo cán bộ cách mạng cho một số nước ở Đông Nam á. Tại đây, đồng chí đã cùng với các nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, ấn Độ, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, v.v..sáng lập ra Hôi liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á - Đông.
Tháng 6 nǎm 1925, đồng chí Nguyễn ái Quốc thành lập Việt Nam thanh niên cách mang đồng chí Hội, trong đó có tổ chức trung kiên là cộng sản đoàn làm nòng cốt để trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị điều kiện cho việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản Việt Nam. Người đã trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện, đào tạo được hơn 200 cán bộ cách mạng. Trong số này, nhiều người được chọn đi học trường Đai học phương Đông ở Liên Xô (Trần Phú, Lê Hông Phong, Hà Huy Tập, v.v..), một số được cử vào học quân sự ở trường Hoàng Phố (Trung Quốc) như Trương Vân Lệnh, Phùng Chí Kiên. Còn phần lớn đưa về nước hoạt động. Người cho ra tờ báo Thanh niên làm cơ quan tuyên truyền của Hội.
Đầu nǎm 1927, cuốn Đường cách mệnh gồm những bài giảng của Người trong các lớp đào tạo cán bộ ở Quảng Châu, được Bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á - Đông xuất bản. Trong tác phẩm quan trọng này, đồng chí Nguyễn ái Quốc nêu ra những tư tưởng cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mang Việt Nam. Đường cách mệnh đề cập đầu tiên đến vấn đề tư cách người cách mang, nhắc nhở cán bộ phải vị công vong tư, nói thì phải làm,... giữ chủ nghĩa cho vững,... ít lòng tham muốn về vật chất,... hy sinh,... giữ bí mật,... phục tùng đoàn thể v.v.. Tác phẩm nêu ra ba loai tư tưởng về cách mạng và chia ra hai thứ cách mạng là "dân tộc cách mạng" và "thế giới cách mạng", rồi khẳng định tuy có khác nhau "nhưng 2 thứ cách mệnh ấy vẫn có quan hệ với nhau". "Tất cả dân cày, người thợ trong thế giới bất kỳ nước nào, nòi nào đều liên hợp nhau lại như anh em một nhà, để đạp đổ tất cả tư bản trong thế giới, làm cho nước nào, dân nào cũng được hạnh phúc, làm cho thiên hạ đại đồng - ấy là thế giới cách mệnh". Tác phẩm phân tích những hạn chế của cách mạng tư sản ở Mỹ (1776), ở Pháp (1789) và khẳng định chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để. Đường cách mệnh chỉ rõ đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt Nam là tư bản đế quốc chủ nghĩa, phong kiến địa chủ; đồng thời, chỉ rõ động lực và lực lượng cách mạng: "công nông là gốc cách mệnh còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông". Trong khi kêu gọi sự đồng tâm, nhất trí làm cách mạng, giải phóng dân tộc, tác phẩm đã phê phán hành động ám sát cá nhân và những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa khác chỉ xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức; hoặc làm cho dân quen tính ỷ lại mà quên tính tự cường. Quần chúng một khi đã được giác ngộ, có tổ chức và lãnh đạo sẽ là lực lượng cách mạng vô địch: "dân khí mạnh thì quân lính nào súng ống nào cũng không chống lại". Đường cách mệnh chỉ rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Tác phẩm còn nhấn mạnh ý thức tự lực tự cường, muốn người ta giúp cho thì mình phải tự giúp mình trước. Đồng chí Nguyễn ái Quốc đã thấy khả nǎng cách mạng thuộc địa có thể giành thắng lợi trước, không thụ động chờ đợi cách mạng vô sản chính quốc thắng lợi để được giải phóng. Người viết: "An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ". Tác phẩm khẳng định: muốn đưa cách mạng đến thắng lợi, trước hết phải có đảng cách mạng. Đảng ấy phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin". Tác phẩm đã giới thiệu các tổ chức chính trị quốc tế, các hình thức làm ǎn hợp tác và hướng nhân dân ta tham gia các tổ chức đó. Đường cách mệnh chỉ rõ: "Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam". Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội và tác phẩm Đường cách mệnh đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng, lý luận chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam.
Cuốn "Đường Kách mệnh" bản gốc được phong là Bảo vật Quốc gia năm 2012
3- Vai trò của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội và Ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam:
Những nǎm trước, các cuộc đấu tranh của công nhân đòi tự do dân chủ, đòi cải thiện đời sống, tuy đã có ý thức giai cấp nhưng vẫn nằm trong phong trào dân tộc nói chung. Công nhân đấu tranh đòi thả nhà cách mạng Phan Bội Châu, để tang nhà chí sĩ Phan Chu Trinh, hay đình công đòi thả Nguyễn An Ninh (1925-1926), thể hiện lập trường tư tưởng của họ chủ yếu là yêu nước, giải phóng dân tộc. Những nǎm 1928-1929, khi Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội thực hiện chủ trương "vô sản hoá" thì phong trào công nhân đã có những bước phát triển rõ rệt. Những cuộc đình công hay chống đi phu đi lính vẫn nhằm vào bọn tư bản thực dân và tay sai của chúng, nhưng đã có tổ chức, có kỷ luật hơn. Phản ánh bước phát triển này, đồng chí Tôn Đức Thắng, một chiến sĩ cách mạng vô sản đã từng kéo cờ phản chiến trên hạm đội của Pháp ở Hắc Hải để bảo vệ Cách mạng tháng Mười Nga, đã viết: Từ chỗ phong trào rời rạc, nhờ ảnh hưởng của cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp, báo Người cùng khổ, và mấy tờ Việt Nam hồn, mà bước đầu lan rộng, bước đầu có tổ chức, để đầu nǎm 1927 công nhân đi vào phong trào Thanh niên cách mạng đồng chí Hội một cách sâu rộng.
Đồng chí Tôn Đức Thắng, người kéo cờ phản chiến trên hạm đội của Pháp ở Hắc Hải
Từ hình thức các hội hữu ái, tương tế, giai cấp công nhân đã tự tổ chức ra công hội. Từ công hội nhà máy Ba Son (1925) đã ra đời các công hội nhà máy xe lửa Trường Thi (Vinh - Nghệ An), công hội nhà máy xi mǎng Hải Phòng, công hội nhà máy dệt Nam Định, công hội các mỏ than Mạo Khê, Hồng Gai v. v.. Ngày 28 tháng 4 nǎm 1929, Tổng công hội Bắc Kỳ được thành lập. Tiếp đó, tháng 10 nǎm 1929, Tổng công hội Nam Kỳ cũng ra đời. Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội cũng hoạt động và phát huy ảnh hưởng mạnh mẽ trong phong trào nông dân và có vai trò quyết định trong việc làm cho phong trào nông dân ngày càng xích lại gần phong trào công nhân. Thực tế lịch sử Việt Nam chứng minh rằng, trong cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, phần quyết định là giai cấp nào nắm được nông dân. Cương lĩnh của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã đề ra: "Tịch ký và đem về công tất cả ruộng đất của tụi đồn điền nhà chung và quý tộc, vua chúa. Tịch ký và đem về công tất cả ruộng đất của địa chủ trên 100 mẫu. Đất ruộng tịch ký về phân phối cho dân cày cấy chung". Khẩu hiệu đấu tranh của Việt Nam thanh niên cách mang đồng chí Hội có nói: "Miễn thuế ruộng nǎm mất mùa", "Đất bồi, đất hoang về dân cày. Phản đối sự cưỡng chiếm những đất ấy", "Thực hành 1/4 lúa ruộng cho địa chủ, đồn điền", "miễn góp lúa ruộng nǎm mất mùa", "Đóng góp tạp dịch bình đẳng, phản đối sự miễn sưu, miễn dịch cho quý tộc và nhà giàu". Trái lại, tất cả các đảng và tổ chức yêu nước khác, kể cả Việt Nam quốc dân Đảng, ngoài chủ trương giải phóng dân tộc đều không có chủ trương đấu tranh cho quyền lợi của công nhân và nông dân.
Đánh giá sự trưởng thành của phong trào công nông trong những nǎm 1928-1929, Dự thảo Luận cương chính trị (l0-1930) của Đảng viết: "Vô sản giai cấp Đông Dương tuy chưa đông đúc, nhưng số thợ thuyền càng ngày càng thêm, nhứt là thợ đồn điền. Sự đấu tranh của thợ thuyền càng ngày càng hǎng hái. Dân cày cũng đã tỉnh dậy chống đế quốc và địa chủ rất kịch liệt. Những cuộc bãi công trong nǎm 1928-1929, những cuộc đấu tranh rất dữ dội của thợ thuyền và dân cày trong nǎm nay (1930) đã chứng tỏ rằng, sự đấu tranh của giai cấp ở Đông Dương ngày càng bành trướng. Điều đặc biệt và quan trọng nhất trong phong trào cách mạng ở Đông Dương là sự đấu tranh của quần chúng công nông có tính chất độc lập rõ rệt, chớ không phải là chịu ảnh hưởng quốc gia chủ nghĩa như trước nữa" Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội là tổ chức đại diện cho giai cấp vô sản lúc bấy giờ đã tranh thủ được tầng lớp trí thức tiểu tư sản Việt Nam. Vào cuối nǎm 1929, đầu nǎm 1930, những điều kiện cho sự ra đời một đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
Vào đầu nǎm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội không còn đủ sức lãnh đạo. Trong lúc đó, số lượng cộng sản đoàn trong Thanh niên cách mạng đồng chí Hội ngày thêm nhiều. Cần phải thành lập một Đảng cộng sản để lãnh đạo phong trào, đó là một yêu cầu khách quan và đã có những tiền đề nhất định.
Tháng 3 nǎm 1929, những cộng sản đoàn trong Kỳ bộ Thanh niên cách mạng đồng chí Hội Bắc Kỳ gồm các đồng chí: Trần Vǎn Cung, Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Vần Tuân, Dương Hạc Đính đã họp tại số nhà 5Đ, Hàm Long, Hà Nội, quyết định thành lập chi bộ cộng sản và chủ trương tiến tới thành lập Đảng cộng sản thay thế Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội để lãnh đạo cách mạng. Ngày 1 tháng 5 nǎm 1929, tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, kiến nghị của đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc kỳ về việc giải tán Hội để thành lập Đảng cộng sản không được chấp nhận. Đoàn đại biểu Bắc kỳ rút khỏi Đại hội về nước, ra lời kêu gọi công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân ủng hộ chủ trương thành lập Đảng cộng sản. Ngày 17 tháng 6 nǎm 1929, những đảng viên trong chi bộ 5Đ Hàm Long đã họp tại số nhà 316 phố Khâm Thiên, Hà Nội, tuyên bố thành lập Đông Dương cộng sản Đảng, cử ra Ban chấp hành trung ương lâm thời gồm các đồng chí: Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Trần Vǎn Cung, Nguyễn Phong Sắc, Trần Tư Chính, Nguyên Vǎn Tuân; thông qua Tuyên ngôn và quyết định xuất bản báo Búa Liềm, xúc tiến việc xây dựng tổ chức đảng và các đoàn thể quần chúng.
Sau khi Đại hội toàn quốc của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội bế mạc, 6 uỷ viên mới được bầu vào Tổng bộ là Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Thiệu, Châu Vǎn Liêm, Nguyễn Sĩ Sách, Lê Hồng Sơn, Phạm Vǎn Đồng đã họp bàn việc thành lập Đảng cộng sản, cử ra ban trù bị gồm các đồng chí lãnh đạo Tổng bộ nói trên. Thực hiện chủ trương này, những cộng sản đoàn còn lại trong Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã hình thành các chi bộ cộng sản. Ngoài hai chi bộ cộng sản ở Trung Kỳ và Nam Kỳ còn có chi bộ cộng sản người Việt Nam ở Thái Lan và một chi bộ ở Hồng Kông (Trung Quốc). Thượng tuần tháng 8 nǎm 1929, An Nam cộng sản đảng được thành lập tại cǎn phòng số 1, lầu 2 "Phong cảnh khách lâu", ở đường Bônác Philippin Sài Gòn (nay là góc đường Lê Lợi - Nguyễn Trung Trực thành phố Hồ Chí Minh). Hội nghị này đã cử ra Ban lâm thời chỉ đạo của Đảng, gồm các đồng chí Châu Vǎn Liêm (tức Việt), Nguyên Thiệu, Trần Não, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Nguyễn Sĩ Sách do đồng chí Châu Vần Liêm làm bí thư.
Sau Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản đảng, các đảng viên Tân Việt cách mạng đảng chịu ảnh hưởng của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã tiến hành Đại hội thành lập Đông Dương cộng sản liên đoàn vào ngày 1 tháng 1 nǎm 1930, gồm các đồng chí Trần Hữu Chương, Nguyễn Khoa Vǎn (tức Hải Triều), Nguyễn Xuân Thanh, Trần Đại Quả, Ngô Đức Đề, Ngô Đình Mãn, Lê Tiềm, Lê Tốn. Đại hội chưa kết thúc thì các đại biểu đã bị chính quyền Pháp bắt. Do vậy, Đông Dương cộng sản liên đoàn ra đời nhưng chưa có Ban chấp hành trung ương. Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng sau khi ra đời đã có sự tranh giành ảnh hưởng, tranh giành quần chúng và công kích lẫn nhau. Đây là những mâu thuẫn trong quá trình phát triển đi lên của phong trào cộng sản Việt Nam. Tình hình ấy phản ánh sự ấu trĩ và khuynh hướng biệt phái, tiểu tư sản trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Hai đảng đã nhiều lần trao đổi thư từ để giải quyết những bất đồng nhưng vẫn không thống nhất được. Những người cộng sản và những người yêu nước chân chính đều nhận thấy cần phải sớm khắc phục hiện tượng trên, thành lập một đảng cộng sản thống nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến lên.